Kết quả khảo sát mới đây của Thanh tra Chính phủ và nhà băng Thế giới cho thấy hầu hết quan điểm của các doanh nghiệp đều cho rằng luật kinh dinh và các thủ tục hành chính rườm rà, nhiêu khê vẫn đẵn để “hành” doanh nghiệp là chính
Đặc biệt, có tới 68% doanh nghiệp khẳng định nếu không hối lộ sẽ khó xong việc. Như vậy, với tâm lý e sợ không “bôi” khó “trơn”, “văn hóa phong bì” dường như đã trở thành luật bất thành văn trong môi trường kinh doanh Việt Nam dù những khoản phí không chính thức này không hề nhỏ.
Theo ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, khi “bôi trơn” xong, các doanh nghiệp sẽ đưa số phí tổn đó vào giá thành, giá bán nhà.
370 triệu USD, FDI bắt đầu tụt dốc và xuống đáy ở con số 185 triệu USD trong tháng 12/2011. Trả lời câu hỏi về hiệu quả việc “bôi trơn”, 32% doanh nghiệp cho rằng muốn giải quyết công việc nhanh, hiệu quả thì phải chịu chi; 26% doanh nghiệp chính trực nhấn phí tổn “mua” công quyền còn rẻ hơn ích tiềm năng mang về.
Sau khi đạt rất cao vào tháng 4/2011, với số vốn đăng ký lên tới 1. Cụ thể, phí này đang chiếm 25-30% tổng tổn phí thực hiện dự án của doanh nghiệp. Trong khi đó, theo đánh giá của chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, chỉ có khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài mới không bị tác động nhiều bởi những khó khăn kinh tế nội địa và yếu kém của thiết chế kinh tế Việt Nam.
Kết thúc năm 2012, vốn FDI đăng ký mới chỉ đạt hơn 13 tỷ USD, chỉ bằng 84,7% năm 2011 và kém khá xa kế hoạch đề ra từ đầu năm là thu hút 15-17 tỷ USD.
Theo Tổng Cục thống kế, tính đến hết 6 tháng đầu năm nay, tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội giảm tới 21,2%, trong khi đó, con số này tại TP. Bởi thế, muốn mọi chuyện được thuận buồm xuôi gió, các doanh nghiệp buộc phải dùng đến các khoản “bôi trơn”, “hoa hồng”. Khi đến bệnh viện với toàn các thiên thần áo trắng, bệnh nhân dù có thở không ra hơi vẫn nhớ quy lời cảm ơn ra những con số.
Đây cũng là một trong những lý do tại sao nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào Việt Nam đang có chiều hướng sụt giảm mạnh.
Tuy nhiên, điều đáng nói là các doanh nghiệp không phải một mình gánh hết những khoản hoài “ngầm” kia mà người chịu thiệt thực thụ lại chính là những người tiêu dùng cuối cùng. Sự suy giảm của FDI vào Việt Nam được nhìn thấy rõ rệt vào năm 2011. Những điểm bán hàng trợ thì trên vỉa hè, hạ cũng phải coi “trách nhiệm bôi trơn” như một thứ thuế điềm nhiên phải có. Thực tế, không chỉ trong ngành BĐS, phí “bôi trơn” có mặt ở hồ hết các lĩnh vực.
Điều này cũng lý giải một phần lý do tại sao giá BĐS hạ mãi mà vẫn nằm “trên trời”, để rồi hình thành nên cục nợ tồn kho đồ sộ, phải mất 4-5 năm mới có thể tiêu hóa hết. Trong 6 tháng đầu năm 2013, vốn FDI vẫn tiếp giảm mạnh, đặc biệt là ở 2 đầu tàu kinh tế. Dần dà phí “bôi trơn” trở thành một “phản xạ có điều kiện” của mỗi người, theo chân họ kể cả khi đi làm, điều hành, quản lý hay làm bất cứ công việc gì, rồi tiến tới trở nên một nét “văn hóa” đặc trưng đến nỗi nhắc đến câu chuyện đầu tư, giới kinh dinh nghĩ ngay đến việc cho cấp dưới đi mua… phong bì.
Thích ứng được thì mới có thể tồn tại. HCM lên tới mức báo động, tương đương mức giảm 43%. Điều này khiến không ít nhà đầu tư nước ngoài cảm thất mỏi mệt, uổng dịp và tổn phí sinh sản kinh dinh cũng bị đội lên. Có thể thấy, “bao thơ” có thể bôi trơn một nhóm hệ thống ích lợi phức tạp, song không thể khiến cả nền kinh tế hoạt động trơn tru. Thậm chí, khi bước chân vào giảng đường – nơi học chữ, học làm người, con trẻ được chứng kiến cảnh bố mẹ mình trầy trật lén lút nhét bì thư vào bó hoa thơm nức tặng thầy cô.
Doanh nghiệp bất kể quy mô lớn nhỏ trên thương trường đều không còn xa lạ với những khoản “lót tay” mỗi khi đến cạy công môn quyền.
Theo đánh giá của các chuyên gia và giới kinh dinh, một trong các lĩnh vực mà doanh nghiệp phải chi trả “phí bôi trơn” nhiều nhất đó chính là lĩnh vực BĐS.