Nước ta có diện tích đất sản xuất nông nghiệp khá lớn, trong đó phần lớn diện tích dùng để trồng ngô và các loại hoa màu có thể làm nguyên liệu để sản xuất TĂCN, thế nhưng hằng năm chúng ta vẫn phải du nhập, ngô, sắn, cỏ khô.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, mục tiêu đó khó có thể đạt được nếu ngay từ hiện nay không kịp thời xây dựng nguồn cung cấp vật liệu TĂCN một cách ổn định. Trong bối cảnh khó khăn chung của ngành, sự nắm tự thân của doanh nghiệp là khôn cùng quan yếu.
Ở rất nhiều tỉnh, tỉnh thành trong cả nước, người chăn nuôi đã buộc phải "treo" chuồng do thua lỗ. Cùng với đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các tập thể, cá nhân xây dựng cầu cảng, hệ thống chuyển vận, nhà kho chuyên dụng, mở sàn giao dịch về TĂCN qua mạng để các doanh nghiệp, người chăn nuôi cập nhật thông báo về giá nguyên liệu, giá thành phẩm TĂCN trong nước và trên thị trường thế giới.
Họ không những cần phải đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng mà còn phải liên kết với nhau để tạo ra công mạnh.
Việc phải du nhập vật liệu TĂCN đồng nghĩa với việc người chăn nuôi phải gánh thêm chi phí về vận chuyển, kiểm định, thuế, rủi ro khi thức ăn không đạt chuẩn. Thức ăn xanh có thể đa dạng hóa từ trồng cỏ đến trồng ngô dày, ngô nếp, ngô rau; hoặc đưa công nghệ vào chế biến rơm rạ, thân ngô, bã mía làm thức ăn hỗn tạp TMR cho chăn nuôi bò sữa, đại gia súc.
Các viện nghiên cứu, các nhà khoa học cần tập kết nghiên cứu các công thức phối trộn thức ăn phù hợp điều kiện chăn nuôi nước ta, sớm đưa cây trồng biến đổi gen vào sản xuất; khuyến khích chế biến bột cá; khuyến khích nghiên cứu tạo vật liệu mới như: thức ăn bổ sung, thức ăn phụ gia. Song song, cần có sự đổi thay nhận thức về bổn phận tầng lớp của các doanh nghiệp trong việc chung tay vì sự phát triển của ngành, bảo vệ được ích và cùng san sẻ rủi ro với người chăn nuôi.
Theo chủ toạ Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam Lê Bá Lịch, năm 2012, để đạt sản lượng hơn 12,7 triệu tấn thức ăn công nghiệp cho gia súc, gia cầm và 2,8 triệu tấn thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, các doanh nghiệp đã phải nhập cảng tới tám triệu tấn vật liệu, trị giá hơn ba tỷ USD.
Với phương án dùng thóc để thay thế, sẽ gieo trồng loại giống lúa siêu cao sản, phẩm cấp làng nhàng. So với các nước trong khu vực, giá TĂCN ở nước ta luôn cao hơn (khoảng 15 đến 20%), dẫn đến các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam khó cạnh tranh. Chưa kể tới việc người nông dân khi bán nông sản cho các công ty liên doanh chế biến TĂCN với giá rẻ để rồi khi nó thành sản phẩm lại phải mua rất đắt từ chính các công ty này.
Phó Cục trưởng Cục trồng Phạm Đồng Quảng cho biết, trong dự thảo Chiến lược phát triển ngành trồng trỉa đến năm 2020, Cục Trồng trọt đã đề xuất ưu tiên tăng diện tích trồng ngô từ 1,1 triệu ha lên 1,4 - 1,5 triệu ha, có vận dụng thâm canh, đưa tiến bộ kỹ thuật, giống mới vào sinh sản. Phụ thuộc vật liệu du nhập, người chăn nuôi "thiệt đơn, thiệt kép" Trong thời kì qua, ngành chăn nuôi nước ta luôn phải đối mặt với những thách thức khi giá bán sản phẩm giảm thấp, còn giá thành sản xuất luôn đứng ở mức cao.
Mới đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ các chính sách xúc tiến liên kết sản xuất tiêu thụ nông phẩm và xây dựng "cánh đồng mẫu lớn". Căn nguyên là vì chất lượng vật liệu không đạt chuẩn do quá trình thu hoạch và bảo quản của người dân chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Bàn luận quan điểm với chúng tôi về vấn đề này, Phó Cục trưởng đảm nhiệm Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương nhận định: "Đa số các loại nguyên liệu phải du nhập, chính yếu là những nông sản lại không phải là thế mạnh của Việt Nam: bột cá, các loại vi-ta-min, khô dầu, đậu tương.
Cho dù số lượng thu hoạch từ ngô, sắn là rất nhiều. Với vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, nơi có năng suất ngô cao, khả năng cạnh tranh được với ngô du nhập, có thể chuyển một phần diện tích lúa vụ đông xuân sang chuyên canh ngô.
, Đồng thời xúc tiến nghiên cứu khoa học, coi xét góc cạnh dinh dưỡng, lợi thế thị trường khi dùng thóc, gạo thay thế ngô, tiểu mạch. Để làm được điều đó, Nhà nước và các tổ chức tín dụng nên có những chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư tạo vùng vật liệu. Theo đó, sẽ chuyển một phần diện tích lúa kém hiệu quả (ở khu vực miền bắc và miền trung) sang trồng ngô, song song điều chuyển thời vụ cây trồng vụ hè thu, tăng diện tích ngô đông sớm.
Nguyên cớ chính là do giá thức ăn chăn nuôi trong nước luôn cao (chiếm tới 65 đến 70% cơ cấu giá thành sản phẩm). Tuy nhiên, dựa trên thế mạnh về sản xuất lúa gạo, cùng với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, vật liệu ngô, lúa mì có thể thay được bằng sinh sản trong nước với các biện pháp: tăng diện tích cây trồng hoặc mạnh dạn dùng thóc, gạo để thay thế".
Về thức ăn xanh cho đại gia súc, các địa phương có nhu cầu thức ăn xanh sẽ mở rộng diện tích trồng cỏ ở vùng miền núi, nơi hoang hóa, tận dụng triệt để đất lúa, đất rừng kém hiệu quả.
Bởi thế, khi thị trường TĂCN thế giới biến động về cung và cầu, tức thì ảnh hưởng tới thị trường trong nước. Khai hoang nguồn vật liệu trong nước Trong Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra, đích đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, chiếm tỷ trọng 42% trong cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp.
Thời kì qua, Chính phủ đã có chính sách bình ổn giá TĂCN nhưng vẫn chỉ là giải pháp mang tính "tình thế" bởi giá TĂCN luôn trong tình trạng bất ổn "tăng nhanh, giảm chậm" và người chăn nuôi luôn chịu thua thiệt.
Điều đó có nghĩa, chúng ta phải tối ưu hóa được nguồn nguyên liệu trong nước bằng nhiều biện pháp linh hoạt. Tuy nhiên, để xây dựng được vùng vật liệu, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến TĂCN phải là cầu nối, ký kết hợp đồng tiêu thụ để người trồng có thể hoàn toàn yên tâm sinh sản. Hy vọng, khi thực thi sẽ lôi cuốn doanh nghiệp, dân cày trong chuỗi kết liên cung ứng nông phẩm, nhằm chủ động tạo nguồn vật liệu cho nhu cầu càng ngày càng tăng để chế biến TĂCN công nghiệp, nâng cao giá trị tăng trưởng của ngành chăn nuôi.
Nếu cố sản xuất trong nước, thì giá thành còn cao hơn du nhập. Khiến sản phẩm khi đến tay người chăn nuôi đã "đội" lên. Về vấn đề này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có nhiều chủ trương như chuyển đổi 200 nghìn ha trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đậu tương.
Khiến cho các doanh nghiệp khi tính giá thành sản phẩm buộc phải tăng thêm các tổn phí: lưu kho, lưu bãi. Trong đó, các loại vật liệu giàu năng lượng như ngô, cám, tiểu mạch thiếu (khoảng 30 đến 40%), thức ăn giàu đạm như đỗ tương, bột xương thịt, bột cá (khoảng 70 đến 80%), riêng các loại khoáng chất, vi lượng, phụ gia thì phải nhập khẩu 100%.
Về vấn đề này, Giám đốc nhà máy TĂCN Lạc Hồng (Hưng Yên) Hoàng Dương Hải san sẻ: Do đặc thù vật liệu của ngành chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài nên khi hàng về tới cảng cũng chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của các cơ quan hải quan, thú y, bảo vệ thực vật.
Bài và ảnh: HẢI PHƯƠNG. Để đạt được, tuổi 2010-2015, ngành chăn nuôi sẽ phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng bình quân 6 đến 7%/năm. Thực tiễn cho thấy, đã có nhiều mô hình chăn nuôi gia trại, nông hộ ở Nghệ An, Hưng Yên dùng thóc, gạo làm thức ăn rất hiệu quả.